Điều bí mật của
phụ nữ
Câu chuyện này chỉ phụ nữ kể cho nhau:
Nàng Eva nói với Đức Chúa Trời:
– Thưa Ngài, con có việc phiền đến Ngài!
– Việc gì vậy con?
– Thưa, Ngài tạo ra con, làm cho con một khu vườn, có những
con thú tuyệt vời và có con rắn rất buồn cười nhưng mà con vẫn cảm thấy không
hề hạnh phúc.
– Tại vì sao vậy?
– Dạ thưa, con rất cô đơn và đã chán vô cùng những quả táo.
– Thôi được. Thế thì ta sẽ tạo cho con một người đàn ông.
– Đàn ông là gì vậy, thưa Ngài?
– Đấy là một sinh vật hư hỏng với đủ thứ tật xấu trên đời.
Nó sẽ gian dối và hiếu danh nhưng nó mạnh mẽ và nhanh nhẹn hơn con, nó thích
săn lùng và giết chóc. Trông nó rất dại dột trong tình trạng được kích thích,
nhưng bởi vì con nài nỉ thì ta cứ tạo cho con như thế, để nó có thể thỏa mãn
những nhu cầu về thể xác của con. Nó sẽ ngu đần, thích cờ bạc, rượu chè và
thích những trò chơi như con trẻ: thích đánh nhau, thích đá banh và những trò
chơi điện tử. Nó cũng không thông minh quá, mà thường xuyên cần đến những lời
khuyên nhủ của con…
– Eo ôi, nghe hay quá – Eva kêu lên sung sướng – nhưng Ngài
có lừa con không đấy?
– Con sẽ có người đàn ông như vậy nhưng với một điều kiện.
– Điều kiện gì ạ?
– Như đã nói từ đầu, nó rất tự cao, tự say mê mình… nên con
phải để cho nó tin rằng nó là con người đầu tiên. Và con hãy nhớ rằng đấy là
điều bí mật… chỉ để chị em phụ nữ kể cho nhau…
Bồ câu và rắn
Chuyện
cổ kể rằng, một lần con rắn đến xin ông trời cho nó trở thành một người phụ nữ
đẹp vì đã chán cảnh bò trườn. Ông trời cảm thấy thương, đã biến rắn trở thành
một người phụ nữ xinh đẹp, và nói: “Hãy đi mà cắn người”. Sau đó mấy ngày, một
con bồ câu cũng bay đến xin ông trời cho bồ câu trở thành một người phụ nữ đẹp.
Ông trời cũng nghe theo và bảo: “Hãy mang đến điều tốt đẹp cho con người”. Kể
từ đó trên đời luôn có hai người phụ nữ: một người với tâm hồn của bồ câu, một
với tâm hồn của rắn.
Cô gái đẹp nhất
Ngày xưa có hai chàng thủy thủ đi chu du thiên hạ bằng thuyền để tìm vợ. Họ đi đến một hòn đảo. Ông vua xứ đảo này có hai cô con gái. Cô chị xinh đẹp sắc nước hương trời, còn cô em thì không được đẹp lắm.
Một chàng thủy
thủ nói với bạn:
– Tớ tìm được
rồi đấy. Tớ sẽ ở lại đây xin làm đám cưới với con gái của vua.
– Được đấy, cô
chị xinh đẹp và thông minh quá.
– Không phải
đâu. Tớ sẽ cưới cô em.
– Cậu có điên
không đấy? Cô em… không được xinh lắm.
– Nhưng mà tớ đã
quyết như vậy, tớ yêu cô ta.
Thế là người bạn
lên thuyền đi tiếp, còn chàng rể chuẩn bị để làm đám hỏi. Theo tục lệ của đảo,
chàng rể phải nộp cho gia đình cô dâu mười con bò. Cô dâu xinh đẹp đáng giá
mười con bò. Chàng trai đi khắp đảo tìm về được mười con bò và đem đến nhà cô
dâu.
– Thưa nhà vua,
con muốn cưới con gái của ngài và con đã chuẩn bị mười con bò.
– Cô con gái lớn
của ta xinh đẹp và thông minh, đáng giá mười con bò. Ta đồng ý.
– Không phải đâu
ạ. Con muốn cưới cô em.
– Ngươi có đùa
không?
– Dạ, con đã
chọn cô ấy.
– Được. Nhưng ta
là người chính trực, ta không thể nhận cả mười con bò. Ta chỉ lấy của ngươi ba
con.
– Ngài cho phép
con nộp cả mười con.
Thế là họ cưới
nhau.
Mấy năm sau đó,
người bạn kia trên đường quay trở lại đã ghé thăm người bạn cưới vợ ngày nào.
Vừa ghé vào cầu tàu, chàng nhìn thấy một phụ nữ vô cùng xinh đẹp. Chàng hỏi
thăm nhà người bạn và đến nơi thấy bạn đang chơi với mấy đứa con.
– Cậu sống ra
sao?
– Tớ đang rất
hạnh phúc.
Lúc này người
phụ nữ xinh đẹp bước ra.
– Giới thiệu với
cậu, đây là vợ tớ.
– Sao, cậu cưới
vợ lần nữa à?
– Không, vẫn là
cô gái ngày xưa đấy chứ.
– Không thể tin
được!
– Thì cậu hãy đi
mà hỏi nàng.
Người bạn bước
đến bên người vợ:
– Tớ xin lỗi vì
câu hỏi thiếu tế nhị. Có điều gì đã xảy ra, tại vì sao em bây xinh đẹp hơn ngày
trước?
– Chỉ vì đơn
giản là em luôn nhớ một điều rằng em đáng giá mười con bò.
Gương mặt đẹp
Nhà bác học, nhà
thơ Omar Khayyam trong một tiểu luận triết học đã định nghĩa về gương mặt đẹp:
“Gương mặt đẹp –
đấy là hạnh phúc cho người được trời ban tặng và là vinh hạnh cho kẻ được ngắm
nhìn. Chiêm ngưỡng gương mặt đẹp làm cho tâm trạng con người hân hoan, giống
như sự phối hợp thần tiên của những vì tinh tú.
Gương mặt đẹp tự
thân tỏa mùi hương và người chủ của nó không cần đến hương liệu. Gương mặt đẹp
như mặt trời phản chiếu trong nước sạch. Gương mặt đẹp tỏa sáng cả khi không có
mặt trời, vì rằng gương mặt đẹp giống như hào quang của mặt trời hay các vì
tinh tú, là sự thể hiện ý chí của Đấng Tối Cao.
Tất cả mọi dân
tộc trên đời đều ca ngợi gương mặt đẹp. Có nhiều thứ trên đời làm cho đôi mắt
con người dễ chịu nhưng vẻ đẹp của tất cả những thứ này không thể thay cho
gương mặt đẹp, vì rằng niềm vui của sự thưởng ngoạn không thể sánh với niềm vui
bao trùm lấy những con người mỗi khi người đẹp có mặt. Nếu món quà sắc đẹp đến
với con người cùng với phẩm hạnh thì người này được Thượng Đế quí trọng và
người đời sẽ yêu thương.
Có bốn phẩm chất
của một gương mặt đẹp:
-Gương mặt đẹp
mang đến sự may mắn tốt lành cho người được chiêm ngưỡng.
-Ngắm nhìn gương
mặt đẹp làm cho con người cảm thấy sung sướng và hạnh phúc.
-Vẻ đẹp của
gương mặt khơi dậy ở con người sự rộng lượng và lòng dũng cảm.
-Gương mặt đẹp
giúp đạt được giàu có và danh vọng cho cả người chủ lẫn người được chiêm
ngưỡng.
Nếu một con
người hạnh phúc mỗi buổi sáng được ngắm nhìn gương mặt đẹp thì người đó cảm
thấy hạnh phúc suốt cả ngày.
Gương mặt đẹp
khơi dậy sự kính trọng. Gương mặt đẹp làm cho tuổi già thêm trẻ, tuổi trẻ thành
tuổi thiếu niên, còn trẻ em với gương mặt đẹp là thiên thần. Thậm chí, chỉ đứng
gần gương mặt đẹp là người ta cảm thấy sự tự tin, vẻ buồn chán tiêu tan và
người ta sẽ làm việc tốt hơn.
Một nhà tiên tri
từng nói rằng: “Tất cả những gì cần, hãy đòi hỏi và hãy nhận lấy ở người được Thánh Ala
ban tặng cho gương mặt đẹp”.
Người đời gọi
những gương mặt đẹp theo nhiều kiểu khác nhau: một người này gọi đó là đối
tượng của tình yêu, một người kia gọi đó là ánh sáng và niềm vui cho đôi mắt,
một người khác lại cho rằng đó là sự trang điểm cho cuộc sống , là khẳng định
sự tồn tại của thiên đường. Còn những người nhận biết những điều nói trên thì
cho rằng gương mặt đẹp là chứng minh cho sự có mặt của Thánh Ala và
là sự bao dung độ lượng của Ngài thể hiện ở cái đẹp và sự hài hòa của thế giới
mà Ngài sáng tạo ra.
Một số người cho
rằng gương mặt đẹp là do Tạo Hóa thưởng cho công lao từ kiếp trước, một số khác
cho rằng đấy là cơn mưa vô tình của sự bao dung từ Thượng Đế, và người chủ của
món quà này có khả năng làm nên những điều kỳ diệu, dễ dàng tìm ra con đường
ngắn nhất để đi đến chân lý.
Thiên thần đầu tiên
Một ngày trước
khi sinh ra trên đời, đứa bé hỏi Thượng Đế:
– Con không biết
được tại sao con lại ra đời. Con sẽ phải làm gì ở đấy?
Thượng Đế trả
lời:
– Ta tặng cho
con thiên thần luôn ở bên con. Thiên thần sẽ giải thích cho con.
– Nhưng con làm
sao hiểu được, con có biết tiếng của thiên thần đâu?
– Thiên thần sẽ
dạy cho con tiếng của mình. Thiên thần sẽ che chở cho con.
– Thế khi nào và
bằng cách nào để con trở lại với Ngài?
– Thiên thần sẽ
nói với con tất cả.
– Thế thiên thần
có tên gọi là gì ạ?
– Không quan
trọng tên gọi là gì, thiên thần có rất nhiều tên. Con sẽ gọi thiên thần là
“Mẹ”.
Phụ nữ
Khi vị thần tối
cao của Vương quốc Magadha
lập nên đất nước Ấn Độ tươi đẹp, Ngài bay trên mặt đất để ngắm nhìn. Đôi cánh
của Ngài tạo thành cơn gió trong lành và ấm áp. Những cây cọ kiêu hãnh cúi
mình, trước mắt Ngài những bông hoa huệ trắng trong và dịu dàng khoe sắc thắm.
Ngài ngắt một cánh hoa huệ ném vào nước biển màu xanh. Ngọn gió thổi vào làn
nước biển màu xanh và trùm lên cánh hoa này bọt biển. Một phút sau đó – từ chùm
bọt biển này hiện ra một người phụ nữ dịu dàng và ngát hương như hoa huệ, nhẹ
nhàng như ngọn gió, đổi thay như biển cả, xinh đẹp và lấp lóa như bọt biển
xanh.
Người phụ nữ
ngắm nhìn làn nước và kêu lên:
– Ôi, ta đẹp
xinh quá đỗi!
Sau đó, nàng
ngắm nhìn xung quanh và nói:
– Thế giới đẹp
tuyệt vời!
Thế rồi người
phụ nữ bước lên bờ đất khô từ dòng nước. Trên mặt đất những bông hoa nở theo
hình dáng của phụ nữ, còn trên trời có hàng ức triệu đôi mắt tò mò và khát khao
nhìn ngó. Những đôi mắt này tràn ngập vẻ thích thú. Từ bấy đến giờ những ngôi
sao này vẫn còn lấp lóa. Sao Vệ nữ cháy lên bằng vẻ ghen tuông – bởi thế sao
này cháy mạnh hơn những ngôi sao khác.
Người phụ nữ đi
dạo trên đồng cỏ và khu rừng tuyệt đẹp. Tất cả đều lộ vẻ hân hoan nhưng im
lặng. Điều này làm cho phụ nữ thấy chán. Nàng buồn bã kêu lên:
– Ôi, Magdha vĩ
đại! Ngài tạo ra con đẹp xinh nhường ấy. Tất cả đều vui mừng nhưng con không
nghe ra, không hiểu được sự mừng vui của chúng, vì tất cả đều câm nín.
Nghe những lời
than phiền, thần của Magadha
liền tạo ra những bầy chim. Những bầy chim hằng hà sa số hót lên ca ngợi vẻ đẹp
của người phụ nữ. Nàng lắng nghe và cười mỉm. Nhưng một ngày sau lại thấy chán
và nàng lại kêu lên:
– Ôi Magadha tối
thượng! Con nghe trong tiếng hót của chim rằng con rất đẹp. Nhưng xinh đẹp để
làm gì nếu không có ai muốn ôm ấp, vỗ về con cả!
Khi đó, Magadha làm một
con rắn rất đẹp. Con rắn quấn quanh người phụ nữ xinh đẹp rồi trườn xuống bàn
chân nàng. Được nửa ngày nàng cảm thấy hài lòng nhưng sau lại chán.
– Thưa Ngài, nếu
quả là con xinh đẹp thì những kẻ khác đã bắt chước. Họa mi hót hay thì kim oanh
bắt chước. Nghĩa là con không thật đẹp!
– Ừ thì con xinh
đẹp! Người ta hát cho con nghe, quấn quít lấy con, bắt chước từng cử chỉ của
con. Người ta ngắm nghía, ghen hờn, và con đã bắt đấu thấy sợ. Biết lấy ai che
chở nếu người ta làm điều ác cho con?
– Người ta vuốt
ve con mà con thì không được vuốt ve ai cả. Người ta yêu con mà con chẳng biết
yêu ai. Chẳng lẽ lại đi yêu sư tử to lớn, xù xì và khủng khiếp!
Ngay lúc đấy một
con chó nhỏ xinh đẹp hiện ra.
– Con chó dễ
thương quá à! – Phụ nữ kêu lên và vuốt ve con chó nhỏ. – Tao yêu mày quá!
Bây giờ thì nàng
đã có tất cả, không còn gì để mà cầu xin nữa. Điều này làm cho nàng giận dữ. Để
trút cơn giận, nàng đánh con chó – con chó kêu ăng ẳng rồi bỏ chạy, nàng đánh
con sư tử – sư tử rống lên rồi bỏ đi, nàng giẫm chân lên con rắn – con rắn thở
phì phì rồi bỏ trốn. Khỉ cũng bỏ chạy, chim chóc cũng bay đi khi phụ nữ hét lên
với chúng…
– Ta thật là bất
hạnh! – Phụ nữ kêu lên – Người ta âu yếm, vuốt ve khi ta vui mừng và bỏ chạy
biệt tăm khi ta giận dữ. Ta cô đơn quá! Ôi Magadha tối cao! Một lần cuối cho
con được khẩn cầu: hãy cho con một sinh vật để con có thể trút cơn giận mà
không dám bỏ đi trốn, khi con cáu bẳn thì người này có trách nhiệm và nhẫn nhục
chịu đòn…
Vị thần tối cao
của Magadha
suy nghĩ một hồi rất mông lung, rồi tạo ra cho phụ nữ một… người chồng.
Phụ nữ sinh ra từ đâu?
Đàn ông đến than
vãn với Đức Chúa Trời về nỗi buồn của mình. Đức Chúa Trời nghĩ ngợi: “Biết lấy
gì để tạo cho nó người phụ nữ, vì rằng tất cả nguyên liệu đã dùng hết vào việc
tạo ra đàn ông rồi”. Nhưng không nỡ từ chối lời yêu cầu của đàn ông, sau khi đã
suy nghĩ kỹ càng, Ngài tạo ra người phụ nữ bao gồm: một chút ánh nắng mặt trời,
tất cả sắc màu quyến rũ của hoàng hôn, vẻ u buồn của ánh trăng, sắc đẹp của
thiên nga, vẻ nhí nha nhí nhảnh của mèo con, vẻ yểu điệu của chuồn chuồn, vẻ
dịu dàng ấm áp của lông, sức hút của nam châm, rồi trộn lẫn vào nhau. Sau đó,
để ngăn ngừa sự ngọt ngào quá đỗi, Ngài thêm vào: vẻ chập chờn lạnh lẽo của
sao, đổi thay của gió, nước mắt giàn giụa của những đám mây đen, vẻ láu lỉnh
tinh ranh của cáo cái, tình hay quấy nhiễu của ruồi, lòng tham lam của cá mập,
ghen tuông của hổ cái, tình hay trả thù của ong vò vẽ, khát máu của đỉa trâu,
ngất ngư dài lâu của thuốc phiện, rồi Ngài thổi vào linh hồn của cuộc sống. Thế
là xuất hiện người phụ nữ.
Đức Chúa Trời
tặng phụ nữ cho đàn ông và dặn rằng:
– Con hãy giữ
gìn nó như vậy, đừng có mà cố gắng thay đổi. Chỉ hoài công!
8 ý nghĩ hoang đường về phụ nữ
1. Đàn ông
bao giờ cũng là người nuôi dưỡng gia đình.
Từ xưa đến nay
chúng ta vẫn biết rằng đàn ông là người kiếm tiền, phụ nữ là người nuôi dạy con
cái. Nhưng các nhà khảo cổ học đã chứng minh rằng: chính phụ nữ mới là người
nuôi dưỡng cả gia đình. 80% thực phẩm nuôi gia đình là do phụ nữ mang về. Họ
không có cách nào khác. Vì đa số đàn ông chỉ có thể săn được thú chỉ sau rất
nhiều ngày đuổi bắt. Kết luận của các khoa học: tổ tiên chúng ta sống bằng săn
bắn và hái lượm đã từng sống trong một xã hội rất bình đẳng.
2. Những
người mẹ nhận ra con nhỏ của mình bằng mũi còn những ông bố thì không.
Luận điểm này đã
lạc hậu: người mẹ, như động vật, qua mùi có thể nhận biết đứa trẻ nào là con
mình. Các nhà khoa học Thụy Điển đã tiến hành nghiên cứu đề tài này từ năm
2001. 24 đứa trẻ sơ sinh từ 1 đến 4 tuần; 24 đứa trẻ từ 2 đến 4 tuổi được cho
ngủ trong những bộ áo quần đặc biệt. Sau đó người ta cho bố mẹ của chúng ngửi
mùi để nhận con. Mùi của trẻ chỉ có các ông bố nhận ra. Phụ nữ không cảm nhận
ra sự khác nhau trong mùi của con trẻ chứ nói gì đến chuyện ngửi mùi để nhận ra
con mình.
3. Phụ nữ đối
xử với trẻ con tốt hơn đàn ông.
Đấy là điều
hoang tưởng đáng yêu. Ross Parke ở Đại học California đã nghiên cứu về các ông bố. Kết
luận: cũng như các bà mẹ, ngay sau khi sinh con, người bố đã có sự tiếp xúc
tình cảm với đứa bé. Những ông bố cũng chuyện trò, chơi với con trẻ và cũng
thường xuyên hôn chúng. Họ cũng xác định được tín hiệu từ con trẻ: đói, sợ,
buồn. Chỉ phản ứng của tiếng cười con trẻ thì các ông bố có phần chậm hơn.
4. Linh cảm ở
phụ nữ phát triển hơn ở đàn ông.
Phụ nữ nhạy cảm
hơn nhiều vì linh cảm ở phụ nữ phát triển hơn. Phụ nữ thường nói như vậy. Từ
vài ba chục năm nay các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu đề tài này. Những
bài viết được công bố từ năm 1983 cho biết: đấy là cứ ngỡ như vậy. Trên thực tế
không phải thế. Trong các cuộc thử nghiệm, kết quả ở phụ nữ và đàn ông như
nhau. Kết luận của các nhà khoa học: chuẩn mực văn hóa cho phép phụ nữ tin rằng
họ nhạy cảm hơn đàn ông nhưng khả năng di truyền đã không xác định được điều
này.
5. Phụ nữ ít
gây gổ hơn đàn ông.
Đàn ông là những
kẻ ưa gây gổ, phụ nữ – dịu dàng và mềm mỏng. Tuy nhiên, hàng chục công trình
nghiên cứu đã chứng minh rằng không hẳn đơn giản thế. Nếu nói về những biểu
hiện gây gổ bằng chân tay trong số trẻ vị thành niên thì quả là các cậu bé dẫn
đầu. Tuy nhiên, xem xét sự gây gổ trong tất cả các trường hợp thì thấy rõ sự
khác biệt của giới tính. Các cô bé thích gây gổ một cách gián tiếp: vu khống,
từ chối kết bạn hay nhiều mánh khoé khác. Những điều này không phải là lý lẽ để
khẳng định rằng họ ít gây gổ hơn. Hơn nữa, đàn ông theo tuổi tác, sự vượt trội
về sức mạnh tay chân sẽ mất đi.
6. Phụ nữ đi
làm bao giờ cũng có thu nhập ít hơn đàn ông.
Viện Soziookonomische Panel (SOEP) thường xuyên tiến hành
nghiên cứu ở Đức từ năm 1984 cho thấy những kết quả bất ngờ: 35% phụ nữ có thu
nhập nhiều hơn chồng của họ. Nghiên cứu của Richard Freeman ở Đại học Harvard
cũng có kết quả tương tự: 30% phụ nữ làm việc ở Mỹ có thu nhập cao hơn chồng.
Còn theo số liệu của Quĩ Virpul thì ở châu Âu con số này thậm chí là 59%.
7. Đa số phát
minh là của đàn ông.
Phin pha cafe,
áo ngực của phụ nữ, tã lót dùng một lần… Những thứ này chẳng lẽ là phát minh
của đàn ông? Có rất nhiều thứ làm cho cuộc sống chúng ta trở nên nhẹ nhàng hơn
do phụ nữ nghĩ ra. Trong y học, kỹ thuật máy tính hay các môn khoa học tự nhiên
phụ nữ có nhiều phát minh quan trọng. Dorothy Hodgkin Crowfoot (giải Nobel hoá
học 1964) là người phụ nữ tìm ra hơn 100 phân tử hóa học. Ada Lovelace Byron
(con gái của nhà thơ Anh Byron) – là người phát minh ra công nghệ tin học.
Stephanie Kwolek phát minh ra chất cực nhẹ, cứng như thép dùng để làm áo che
đạn.
8. Phụ nữ
không thích xem phim khiêu dâm.
Hơn một nửa phụ
nữ thích xem phim khiêu dâm, còn đàn ông là 73%. Đấy là kết quả thăm dò của
viện xã hội học Gewis-Institut (Đức). Vào thời gian trên truyền hình có chiếu phim
tươi mát phụ nữ xem còn nhiều hơn đàn ông.
(Nguồn: Tages Anzeiger)
Omar Khayyam về tình yêu và
phụ nữ
Trong
các nhà thơ cổ phương Đông nổi tiếng thế giới, nhà thơ Ba Tư Omar Khayyam chiếm
vị trí số 1. Hàng triệu quyển thơ ông được in ra đều đặn từ hơn 100 năm nay cho
đến bây giờ vẫn thế. Thơ Rubaiyat của Khayyam về ý nghĩa cuộc đời người, về sự
bất lực của con người trước số phận và thời gian, về những sung sướng và đau
khổ của kiếp người, về tuổi trẻ và tình yêu, tuổi già và cái chết, về những lời
khuyên răn mà trong đó mỗi người có thể tìm thấy cho mình một điều gì thầm kín
chưa từng được nói ra – tất cả đã trở thành tài sản tinh thần của toàn nhân
loại.
Dưới đây là một
đối thoại giữa Khayyam với cô người tình trong một cuốn truyện viết về ông.
Đoạn đối thoại này thể hiện đầy đủ cái nhìn của ông về cuộc đời, về tình yêu và
phụ nữ.
“- Thưa ông, trà
đã chuẩn bị xong và món ăn mà ông thích: bánh và mật.
- Thế con có nhớ
không, có lần ta đã bảo con rồi, tốt hơn trà là rượu…
- Vâng, và tốt
hơn rượu là phụ nữ, còn tốt hơn phụ nữ là chân lý.
- Ừ, ta đã từng
nói vậy. Nhưng hôm nay ta đi dạo trong vườn chợt hiểu ra rằng: tất cả đều nhảm
nhí, vớ vẩn hết. Tất cả mọi thứ trên đời đều có khối lượng, trọng lượng, thể tích
và thời gian tồn tại nhưng không có thước đo của một thứ – chân lý. Điều mà hôm
qua tưởng đã đúng rành rành thì hôm nay lại hoá thành sai. Điều mà hôm nay
người ta cho rằng giả dối thì ngày mai em trai con sẽ học trong nhà trường.
Không phải lúc nào thời gian cũng là thước đo mọi khái niệm. Ta đã từng nghe
bao nhiêu lời đồn đại của người đời về ta. Khayyam – người chứng minh chân lý,
Khayyam – người keo kiệt, Khayyam – nghiện rượu, Khayyam – mê gái, Khayyam – vô
thần, Khayyam – thần thánh… Thế mà ta chỉ là ta.
- Thế còn con
thì sao, thưa ông?
Lady Godiva
Quí bà Godiva (980 – 1067) – nữ Bá tước, vợ của ngài Bá tước
Leofric III,
là một phụ nữ xinh đẹp đã dũng cảm khỏa thân cưỡi ngựa đi một vòng quanh thành
phố Coventry, Anh để
chồng giảm thuế nặng cho dân chúng. Godiva còn gọi là Godgifu, nghĩa là
“quà tặng của Đức Chúa Trời”.
Theo truyền thuyết của Anh,
Godiva là một phụ nữ tuyệt đẹp đã yêu cầu chồng giảm thuế nặng cho dân chúng Coventry. Leofric hứa sẽ giảm thuế cho dân nếu vợ ông khỏa
thân cưỡi ngựa dạo quanh thành phố Coventry. Leofric tin chắc rằng Godiva không
bao giờ chịu làm như vậy. Không ngờ Godiva đồng ý, mặc dù có một chút khôn vặt
– nàng đề nghị dân chúng vào một ngày hẹn trước đóng hết cửa và không nhìn ra
đường phố. Và thế là Godiva khỏa thân cưỡi ngựa đi hết một vòng quanh thành phố
Coventry. Ngài bá tước vô cùng kinh ngạc trước
tinh thần dám xả thân của phụ nữ nên giữ lời hứa của mình, đã giảm thuế nặng
cho dân chúng. Cũng theo truyền thuyết thì trong ngày hôm đó chỉ có duy nhất một
chàng Tom tò mò (Peeping Tom)
đã lén lút ngó nhìn qua cửa sổ và chính ngay trong cái khoảnh khắc nhìn thấy đã
bị mù cả hai mắt.
Cuộc đời của Bá tước Leofric và Godiva được ghi
chép trong sử sách của Anh. Biên niên sử chép rằng năm 1043
Leofric, Bá tước xứ Mercia
xây dựng tu viện Benedictine
ở Convetry, biến làng Coventry thành một thành
phố lớn thứ tư ở nước Anh thời bấy giờ. Leofric hiến cho tu viện
rất nhiều đất đai, còn Godiva tặng rất nhiều vàng bạc mà không một tu viện nào
thời đó có thể sánh bằng. Tuy vậy, không thấy sử sách ghi những truyền thuyết
về Godiva và chàng Tom nhìn trộm. Câu chuyện về Quí bà khỏa thân cưỡi ngựa lần
đầu tiên được nhà tu Roger Wendover
nhắc đến năm 1188. Theo đó, sự kiện này xảy ra ngày 10 tháng 7 năm 1040. Còn
sau đấy thì câu chuyện được kể với sự thêu dệt của người đời. Thế kỷ XIII, vua Edward I, tìm hiểu sự thật
của câu chuyện này, đã nghiên cứu những sự kiện chép trong sử sách và nhận thấy
rằng năm 1057 dân Coventry chịu thuế rất nặng. Còn câu chuyện về “chàng Tom
nhìn trộm”, theo nhiều nguồn tin, chỉ xuất hiện vào năm 1586 khi Hội đồng thành
phố Coventry đặt cho họa sĩ Adam van Noort
vẽ bức hoạ về Quí bà Godiva theo truyền thuyết. Bức tranh này sau đấy được treo
ở quảng trường thành phố nhưng dân chúng lại nhầm là ngài Bá tước Leofric đang
ngó vào cửa sổ để xem một con dân đang nghe trộm.
Câu chuyện về hành động quên mình vì nghĩa lớn của Quí bà
Godiva cách đây gần 1000 năm đã trở thành đề tài của rất nhiều tác phẩm thơ,
văn, hội họa, điện ảnh… Dưới đây là tóm tắt một số sự kiện từ cổ chí kim:
- Gần nhà thờ chính Coventry
đặt bức tượng Quí bà Godiva ngồi trên ngựa, mái tóc buông xoã. Hình của bức
tượng này khắc trong con dấu của Hội đồng thành phố Coventry.
- Từ năm 1678 dân chúng Coventry tổ chức ngày lễ hằng năm
để tưởng nhớ Quí bà Godiva, ngày lễ này đến nay vẫn không thay đổi. Đây là ngày
lễ như ngày hội Carnavan,
người ta hát hò, biểu diễn âm nhạc còn buổi tối bắn pháo hoa. Những người tham
dự mặc trang phục của thế kỷ XI diễu hành từ nhà thờ cổ, theo con đường mà ngày
xưa Quí bà Godiva đã cưỡi ngựa đi, rồi trở về tập trung ở tượng Quí bà Godiva
tổ chức nhiều cuộc thi, đặc sắc nhất cuộc thi bầu chọn Lady Godiva đẹp nhất.
Tham dự cuộc thi này là những phụ nữ đẹp mặc đồ lót phụ nữ thế kỷ XI. Người
thắng cuộc thường là người đẹp có mái tóc dài vàng óng.
- Có vẻ như ngược đời, nhưng ở Anh có nhiều cửa hàng bán
quần áo mang tên Lady Godiva.
- Bài hát "Don't Stop Me Now" của ban nhạc nổi
tiếng Queen về Lady Godiva.
- Bài hát “My Girl” của Aerosmith
có câu , "My girl's a Lady Godiva."
- Ban nhạc Boney M
có bài hát “Lady Godiva”.
- Nhà thơ Osip Mandelstam
viết bài thơ “Lady Godiva” sau đây, lấy cảm hứng từ bức tranh Quí bà Godiva
ngồi trên ngựa:
Tôi với vẻ dại dột, ngây thơ thuở
gắn mình vào thế giới hoàng gia, quí tộc
Sợ những món hải vị sơn bào và chỉ
dám liếc mắt nhìn ngó đội vệ binh
Và tôi cũng không có trách nhiệm
với họ dù chỉ một chút hồn mình
Bởi thế tôi không tự hành hạ mình
vì dáng hình kẻ khác.
Với vẻ quan trọng ngô nghê tôi chau
mày trong chiếc mũ như mũ nhà thờ
Tôi không đứng một mình dưới cột đá
hành lang của nhà băng Ai Cập
Và trên sông Nê-va màu vàng chanh,
sau tiếng xạc xào của tờ một trăm đồng rúp
Cô gái Digan trước mặt tôi đã không
còn nhảy múa nữa bao giờ.
Cảm nhận thấy những trận tử hình,
từ tiếng thét gào của thời loạn lạc
Tôi chạy về phía biển Đen, để tìm
đến những nàng tiên
Và thế rồi vì những người đẹp thuở
ấy, những cô gái châu Âu dịu dàng
Tôi đã chịu đựng biết bao nhiêu là
ngượng ngùng cùng đớn đau khó nhọc.
Không hiểu tại vì sao đến tận bây
giờ thành phố này vẫn còn thỏa mãn
Với những ý nghĩ và tình cảm của
tôi theo lề lối cổ xưa?
Thành phố vì những cơn nóng lạnh
trở nên càn rỡ hơn hết bao giờ
Với vẻ tự ái đáng rủa nguyền, với
vẻ trẻ trung và trống rỗng.
Có phải tại vì tôi đã từng ngắm
nhìn trong bức tranh từ thời tôi còn nhỏ
Quí bà Godiva buông tuồng ngồi trên
lưng ngựa màu hung
Và tôi thầm vụng, lén lút tự nhắc
nhở trong lòng:
“Lady Godiva, vĩnh biệt! Tôi không
còn nhớ Lady Godiva nữa…”
Cuộc hôn nhân hạnh phúc
Thời xưa con
người cố gắng tạo ra sự hòa hợp trong hôn nhân bằng sự cưỡng bức. Bằng cách
này, hàng thế kỷ phụ nữ bị chèn ép. Người ta nghĩ đơn giản rằng bắt phụ nữ phục
tùng đàn ông thì sẽ không có vấn đề gì xảy ra. Nhưng đấy không phải là quan hệ.
Khi phụ nữ không còn là một con người độc lập thì mọi vấn đề biến mất, nhưng
con người phụ nữ cũng không còn. Khi đó phụ nữ chỉ là đồ vật, khi đó không còn
niềm vui, và đàn ông bắt đầu đi tìm người phụ nữ khác.
Dưới đây là một
câu chuyện về cuộc hôn nhân ở Ấn Độ ngày xưa:
Một chàng trai
con nhà địa chủ giàu có đến tuổi lấy vợ. Chàng đi tìm vợ bằng cách cưỡi một con
la ra thành phố. Sau một thời gian chàng tìm được cô gái ưng ý để cưới làm vợ.
Họ cùng cưỡi la đi về quê. Đi được mấy cây số con la đứng lại, không chịu đi
tiếp. Chàng trai nhảy xuống đất tìm cây gậy đánh con la.
– Một – chàng
trai hô to.
Con la bước đi
nhưng sau mấy cây số nữa lại không chịu đi và chàng trai lại nhảy xuống.
– Hai.
Một thời gian
sau cảnh cũ lặp lại. Chàng trai nhảy xuống đất và ra lệnh cho vợ cùng nhảy
xuống rồi rút súng bắn con la vào tròng mắt.
– Tại sao anh
ngu ngốc như vậy – người vợ kêu lên – con vật quí như thế, còn anh đi giết nó
chỉ vì bực bội. Tàn nhẫn quá… người vợ cứ tiếp tục bằng những lời như thế. Khi
vợ bắt đầu nghỉ đế lấy hơi, chàng trai nhìn vào vợ:
– Một.
Và nghe nói rằng
sau cái lần như vậy họ sống với nhau hạnh phúc đến hết đời.
Kể lại câu
chuyện này, tôi nhớ một bức thư của Hegel gửi cho người phóng viên của mình,
trong đó có đoạn: “Phụ nữ Nga thường than phiền rằng tại sao các đức ông chồng
lại không đánh họ. Không đánh thì có khác gì không yêu. Đấy cũng là lịch sử Thế
giới. Mọi dân tộc đều cần roi vọt”. Những lời trên đây nói về một đặc điểm của
phụ nữ và, thậm chí, là một đặc điểm của lịch sử. Theo Hegel thì lịch sử cũng
cần một sự kích thích để phát triển.
Sinh ra làm phụ nữ
Một người phụ nữ
than thở với nhà thông thái về số phận của mình. Nhà thông thái nói:
– Tự con là câu
trả lời cho số phận của con.
– Nhưng chẳng lẽ
con phải trả lời về việc rằng con sinh ra làm phụ nữ?
– Sinh ra làm
phụ nữ – đấy không phải là số phận. Đấy là sự tiền định của con. Còn số phận
của con phụ thuộc vào việc con sử dụng sự tiền định ấy như thế nào.
Cổng thiên đàng và địa ngục
Một võ sĩ
Samurai có lần đến hỏi một nhà sư tu theo giáo phái Thiền:
– Thưa nhà sư,
có thiên đàng không? Có địa ngục không? Nếu có thiên đàng, địa ngục thì cổng
vào ở đâu? Ở đâu tôi có thể bước vào?
Đấy là câu hỏi
của một võ sĩ. Mà võ sĩ thì luôn đơn giản. Họ chỉ biết hai thứ: cuộc sống và
cái chết, ngoài ra, họ không cần thứ triết học nào khác. Võ sĩ này chỉ đơn giản
muốn biết cổng vào ở đâu để tránh địa ngục. Nhà sư cũng trả lời theo lối đơn
giản nhất để võ sĩ có thể hiểu được.
– Anh là ai? –
nhà sư hỏi.
– Tôi là
Samurai.
Samurai ở nước
Nhật là một danh hiệu cao quý. Điều này có nghĩa là một người lính hoàn hảo mà
không bao giờ suy nghĩ về cuộc sống. Võ sĩ Samurai nói: “Tôi là thủ lĩnh của
Samurai. Nhật Hoàng cũng kính trọng tôi”. Nhà sư mỉm cười trả lời:
– Anh mà là
Samurai ư? Trông anh có vẻ như một kẻ hành khất!
Câu nói này động
chạm đến lòng tự hào của Samurai. Người võ sĩ đã quên mất rằng mình đi đến đây
để làm gì, liền rút kiếm để giết chết nhà sư. Nhà sư cười bảo:
– Đấy chính là
cổng vào Địa ngục. Với kiếm trong tay, trong cơn giận dữ – anh sẽ mở được nó.
Điều này thì võ
sĩ có thể hiểu ra và nhận thức ngay được. Samurai đút kiếm vào bao, còn nhà sư
bảo:
– Còn đây là
cổng vào Thiên đàng.
Thiên đàng và
Địa ngục ở trong mỗi con người, và những cánh cổng – ở trong mỗi con người. Nếu
ta không nhận thức được – đấy là cổng vào địa ngục. Còn nếu ta tỉnh táo và nhận
thức được – đấy là cổng vào thiên đàng. Trí tuệ là thiên đàng, trí tuệ là địa
ngục và trí tuệ là phương tiện để trở thành địa ngục hoặc thiên đàng. Người ta
vẫn thường nghĩ rằng mọi thứ đều ở đâu đó bên ngoài mình. Địa ngục và thiên
đàng không phải ở bên kia thế giới, địa ngục và thiên đàng ở đây, ngay lúc này.
Những cánh cổng luôn luôn mở. Trong mọi khoảnh khắc bất kỳ ta có thể tự lựa
chọn giữa địa ngục và thiên đàng.
Bài học về tình yêu
Một chàng trai
tìm đến hỏi chuyện vua Solomon khi ông đang viết “Nhã ca”.
– Thưa nhà vua,
tiếng tăm về sự anh minh của ngài ai ai cũng đã biết. Con muốn xin ngài một lời
khuyên, vì rằng con không thể nào lặng yên, không thể ngủ, mà con tim thì tan
vỡ đến muôn đời.
Nhà vua nhìn
chàng trai và hỏi:
– Con sống bằng
nghề gì?
– Con là con
trai một người giàu có nên không phải vất vả vì kế sinh nhai. Con thường đọc
thơ và những câu chuyện cổ tích cho mọi người nghe.
– Chính vì thế,
con kể cho mọi người những điều mà con không biết nên con mỏi mệt. Nhưng chính
trong thơ, trong truyện là niềm vui và hạnh phúc của con chứ?
Rồi nhà vua tiếp
tục:
– Tình cảm và lý
trí – là hai phần tách biệt của một con người thống nhất. Lý trí cần lạnh lùng
nhưng tình cảm cần nỏng bỏng. Cần biết cách giữ sự rõ ràng của lý trí khi con
tim cháy lên thì con sẽ làm được những việc mà trước đây chưa hề nghĩ. Chẳng lẽ
con không để ý rằng cả thế giới xung quanh đều thay đổi khi con yêu hay sao?
Chàng trai trả
lời:
– Con thấy đời
đẹp hơn trước và không khí vô cùng trong sạch đến độ có thể nhìn thấy những
ngôi sao giữa ban ngày.
Và vua Solomon
tiếp lời:
– Lý trí giúp
con thể hiện tình cảm của mình vào công việc có ích cho mọi người. Tình yêu
không được đáp lại sẽ trở thành bài học cho lý trí, còn tình yêu được đáp lại
sẽ là nguồn vui vô tận của trái tim. Con người với trái tim lạnh lùng giống như
bếp lửa đã tắt. Con người với đầu óc nóng bỏng giống như chiếc xe thồ lao xuống
sông: người này không biết làm chủ mình, còn khi biết ra thì đã muộn.
Chàng trai hỏi
nhà vua:
– Thế nghĩa là
khi yêu con phải trao ý chí cho một phần của mình nhưng lại phải biết gìm lại
phần khác?
– Đấy là công
việc vô cùng khó nhọc nhưng người biết cách làm được sẽ trở thành tấm gương cho
những người khác trong cuộc đời cũng như sau khi đã chết.
Bài học về sự lựa chọn
Một người đàn
ông đến xin lời khuyên của vua Solomon khi ông đang ăn nho. Người đàn ông nói:
– Xin nhà vua
hãy giúp con! Thằng con trai của con cần lựa chọn một trong hai người phụ nữ,
con không thể ngồi nhìn con mình rất đau khổ.
Vua Solomon vừa
nhìn lên trời vừa trả lời:
– Sự lựa chọn –
đấy không phải là cái mà ta chọn. Sự lựa chọn đấy là cái mà ta từ chối.
Và nhà vua hỏi:
– Anh sống bằng nghề
gì?
Người đàn ông
trả lời
– Con làm thợ
xây. Bố con quyết định như vậy.
– Bố anh không
quyết định như vậy. Bố anh đã từng nghĩ: “Liệu thằng con trai cón nên làm thợ
mộc? Liệu nó có khả năng làm nghề buôn?” Cứ mỗi lần, chọn một cái này thì anh
từ chối tất cả những cái còn lại. Thời gian mà ta sống qua không đủ để hiểu
biết ra tất cả, không đủ để nếm mùi tất cả mọi loài cây trái, không đủ để nhận
biết tất cả đàn bà con gái.
Nhà vua im lặng
một lúc rồi nói tiếp:
– Hãy nhớ cho
mình một qui tắc là nhận biết ta nên từ chối cái gì. Điều này cho phép ta vứt
bỏ những mơ ước hão huyền và những thất vọng thường xuyên. Luôn luôn nhớ điều
này thì con đường của ta sẽ sáng sủa hơn và thật như vốn có. Anh hãy nhớ rằng
sự lựa chọn là không hề có.
Phụ nữ thực sự muốn gì?
Theo truyền
thuyết, ngày xưa vua Arthur bị một ông vua của Vương quốc khác bắt làm tù binh
và bị bỏ tù. Sau đấy, ông vua này nghĩ lại cảm thấy thương nên nói rằng sẽ cho
Arthur ra tù nếu ông trả lời được một câu hỏi khó. Ông vua này cho Arthur một
năm để đi tìm câu trả lời, còn nếu không tìm ra thì sẽ bị treo cổ. Câu hỏi như
thế này: “Phụ nữ thực sự muốn gì?”
Vua Arthur cho
người đi hỏi tất cả phụ nữ trong Vương quốc của mình suốt một năm nhưng không
một ai trả lời cả. Cuối cùng người ta báo cho ông rằng có một mụ phù thủy có
thể trả lời nhưng cái giá của câu trả lời rất cao. Nhà vua không còn sự lựa
chọn nào đã đích thân đến hỏi phù thủy muốn gì. Mụ phù thủy muốn lấy Gawain –
hiệp sĩ xuất sắc nhất của Arthur – làm chồng. Bởi vì mụ phù thủy trông rất khủng
khiếp lại rất già và chỉ có một răng.
Arthur nói rằng
ông không muốn bắt ép người bạn của mình, thà ông chịu chết. Nhưng Gawain lại
nói rằng cuộc đời của nhà vua cần cho cả Vương quốc nên chàng bằng lòng lấy mụ
phù thủy. Thế là phù thủy trả lời câu hỏi của Arthur. Phù thủy nói rằng phụ nữ
rất muốn được sử dụng cuộc sống riêng theo ý mình.
Vua Arthur được
ra tù và tất cả vui mừng chuẩn bị làm đám cưới. Hiệp sĩ Gawain là môt Quí ông
theo đúng nghĩa, còn phù thủy trong ngày cưới trông càng khủng khiếp hơn ngày
thường.
Đêm tân hôn,
Gawain miễn cưỡng đi vào phòng ngủ. Trước mắt chàng hiệp sĩ là một phụ nữ đẹp
tuyệt vời mà chàng chưa bao giờ nhìn thấy người phụ nữ nào đẹp như vậy. Gawain
ngạc nhiên hỏi điều gì đã xảy ra. Phù thủy trả lời rằng đấy là sự cảm tạ thái
độ của chàng khi nàng trông rất khủng khiếp, nên một nửa thời gian nàng sẽ là
một người phụ nữ trẻ đẹp, còn một nửa thời gian sẽ là phù thủy và hỏi Gawain sẽ
chọn người như thế nào ban đêm, người như thế nào ban ngày. Gawain suy nghĩ rất
lâu, không biết nên chọn người đẹp vào ban đêm, phù thủy ban ngày hay ngược
lại? Cuối cùng, chàng quyết định để cho phù thủy tự mình quyết định. Khi đó,
phù thủy nói rằng, nàng sẽ mãi mãi là người đẹp, bởi vì chàng tôn trọng và cho
phép nàng sử dụng cuộc sống riêng theo ý mình.
Một điều rút ra
từ câu chuyện trên: không quan trọng vợ bạn là người phụ nữ đẹp hay không đẹp,
thông minh hay dại dột. Đằng sau tất cả những điều này thì nàng vẫn là phù
thủy.
Vợ người ta
Ngày xửa ngày xưa Thượng Đế tạo ra mười người đàn ông. Một người này cuốc
đất, người nọ chăn cừu, người kia đánh cá…
Sau một thời gian, cả mười người đàn ông đến gặp Thượng Đế và nói:
– Thưa Ngài, chúng con sống đủ đầy nhưng mà vẫn còn thiếu một cái gì đấy.
Chúng con cảm thấy buồn buồn thế nào ấy.
Thượng Đế trao cho họ mỗi người một ít đất sét và nói:
– Mỗi người hãy đi nặn cho mình một người phụ nữ theo ý thích: gầy, béo,
to, nhỏ, cao, thấp… Rồi ta sẽ thổi vào linh hồn của cuộc sống.
Sau đó Ngài mang ra một rổ đường và nói:
– Đây là mười cục đường. Mỗi người hãy lấy một cục cho người vợ của mình,
để cuộc sống với người vợ sẽ ngọt ngào.
Cả mười người đàn ông làm theo.
Sau đó, Thượng Đế nói:
– Trong số các ngươi có một kẻ láu cá. Trong rổ này có mười một cục đường,
ai đã lấy hai cục?
Tất cả đều im lặng. Thế là Thượng Đế nổi giận, lấy cả mười người vợ mà họ
vừa nặn xong trộn vào nhau rồi chia cho mỗi người một phần, bất kể ý thích của
họ.
Kể từ ngày đó, có chín người đàn ông trong số mười người vẫn nghĩ rằng vợ
người ta bao giờ cũng ngọt ngào hơn vợ mình bởi vì nàng có đến hai cục đường.
Và chỉ có một người đàn ông hiểu rằng tất cả phụ nữ đều như nhau cả, bởi vì
người này là người đã ăn cục đường thứ mười một kia.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét